Những mặt trái của “Dịch truyền & Vitamin” đến sức khỏe

      Giống như những loại thuốc khác, nước biển (dịch truyền) và thuốc bổ (vitamin) đều là thuốc dùng để điều trị bệnh. Vì là thuốc nên bên cạnh tác dụng chữa bệnh, nó còn gây ra những phản ứng bất lợi khác cho cơ thể mà người ta gọi là dị ứng thuốc. Hiện tượng dị ứng thuốc xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau, nhẹ như rối loạn tiêu hóa, nổi ban, ngứa…, nặng là sốc thuốc (gọi là sốc phản vệ). Những trường hợp dị ứng thuốc nặng nếu không được cứu chữa kịp thời có thể để lại hậu quả nặng nề hoặc dẫn đến chết người.

  1. Dịch truyền:

Nhiều người thường có thói quen gọi các loại dịch truyền ở bệnh viện là “nước biển”. Đó là các loại dung dịch thường gặp như natrichlorua, glucose, ringer lactate, ringer dextrore… Trên thực tế, một số người rất “sùng bái” dịch truyền. Với họ, bệnh gì chưa biết, cứ “nước biển” vô là khỏe ngay. Tác dụng của dịch truyền do vậy mang tính tâm lý hơn là sự cần thiết cho bệnh nhân. Do đó, thái độ đúng nhất của người sử dụng dịch truyền nói riêng và các loại thuốc nói chung là chỉ sử dụng khi cần thiết. Hãy luôn nhớ rằng “thuốc là con dao hai lưỡi”.

          Bản chất “nước biển” hay dịch truyền

          Về mặt chuyên môn, dịch truyền là loại dung dịch chứa nhiều chất khác nhau đã được hòa tan trong quá trình pha chế. Nhìn chung, nước cất là dung môi phổ biến và cơ bản của các loại dịch truyền. Hiện dịch truyền có đến mấy chục loại khác nhau, nhưng có thể xếp vào 3 nhóm chủ yếu sau đây:

          – Nhóm dinh dưỡng: Nhóm này cung cấp các chất dinh dưỡng cho cơ thể như glucose 5%, 10%, 20% và 30% và các loại dung dịch chứa chất đạm, chất béo và vitamin như Alvesin, Moriamin, Lipofuldin, Vitaplex…

          – Nhóm nước và điện giải: Nhóm này bù đắp lại lượng nước và các chất điện giải mà cơ thể đã mất khi nôn, tiêu chảy… Các loại dung dịch thường gặp như Natri Chlorua 9‰, Bicarbonate Natri 14‰, Riger Lactate…

          – Nhóm đặc biệt: Nhóm này gồm có các loại dung dịch huyết tương tươi, Albumin và các loại cao phân tử khác (Manitol, Dextran, Gelofusin…).

          Những chỉ định truyền dịch

          Căn cứ vào sự phân nhóm của dịch truyền, có thể dễ dàng suy ra khi nào người bệnh cần được truyền dịch. Đó là lúc cơ thể thiếu chất dinh dưỡng, suy nhược, suy kiệt do ăn uống kém hoặc thiếu nước và điện giải do nôn mửa, tiêu chảy… Một người bình thường, khi xét nghiệm máu sẽ cho các thông số trong máu một kết quả trung bình. Nếu vì một lý do nào đó làm cho các mức trung bình này giảm, khi ấy cần có sự bù đắp để tái lập lại sự cân bằng này.

          Các trường hợp mất nước, mất máu nặng hoặc choáng phản vệ, dịch truyền các loại cần được truyền vào tĩnh mạch ngay lập tức để giữ tuần hoàn máu bệnh nhân trong trạng thái ổn định, cho dù đó chỉ là sự ổn định tạm thời trong khi chờ đợi sự giải quyết nguyên nhân.

          Tai họa do dịch truyền mang lại

          Không một ai có thể khẳng định chắc chắn rằng việc truyền dịch luôn luôn an toàn và có lợi. Bởi những phản ứng bất lợi do dịch truyền mang lại luôn là điều bất ngờ. Do đó, người thực hiện việc truyền dịch luôn ở trong tư thế sẵn sàng “chiến đấu” với phản ứng bất lợi do dịch truyền đột ngột xảy ra. Đây là lý do tại sao người bệnh cần được truyền dịch tại bệnh viện hoặc các cơ sở y tế có đầy đủ thuốc men và các trang thiết bị liên quan để cấp cứu cho bệnh nhân.

          Tai biến do dịch truyền, tùy theo cơ địa của người bệnh mà thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Có trường hợp tai biến xảy ra tức thì, nhưng cũng có những trường hợp xảy ra sau khi kết thúc việc tiêm truyền. Các biểu hiện của tai biến xảy ra từ nhẹ đến nguy hiểm như: Đau ở vùng châm kim, sưng phù, thâm tím da, run lạnh, viêm tĩnh mạch. Sốc dịch truyền là tai họa ngay tức thời và nặng nề nhất, có thể dẫn đến chết người. Các biểu hiện của người bị sốc dịch truyền là hốt hoảng, đau ngực, thở khó, da nhợt nhạt, vã mồ hôi lạnh, mạch nhanh, thậm chí khó bắt, huyết áp tụt. Nếu như không được cấp cứu kịp thời và đúng cách, người bệnh có thể tử vong.

  1. Vitamin:

Đối với vitamin, không ít người quan niệm đó là thuốc bổ, mà đã là thuốc bổ thì cứ “vô tư” mà uống, nếu không lợi nhiều thì cũng lợi ít. Bố mẹ mua ép con cái uống, con cái mua biếu bố mẹ già uống để tỏ lòng hiếu thảo. Nhưng vitamin có thực sự là thuốc bổ như nhiều người vẫn nghĩ không?

        Bản chất của vitamin: Về mặt sinh học mà nói thì vitamin không phải là chất dinh dưỡng. Bởi chúng không phải là “thức ăn” nuôi dưỡng cơ thể con người, mà là các chất có mặt trong cơ thể với một lượng rất nhỏ, gọi là các chất vi lượng. Các chất này đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động chuyển hóa của tế bào, bởi chúng tham gia vào các phản ứng sinh hóa trong cơ thể và đảm nhận một số chức năng khác như dẫn truyền thần kinh, hỗ trợ tuyến nội tiết. Nếu không có vitamin thì các quá trình trên không xảy ra, hoặc ngưng trệ dẫn đến kết thúc sự sống với những biểu hiện tồi tệ và đau đớn.

          Mặc dù các Vitamin có vai trò quan trọng như vậy, nhưng cơ thể không “chủ động” tạo ra chúng được mà lệ thuộc vào nguồn cung cấp bên ngoài (trừ một vài vitamin như D và PP). Nguồn vitamin cung cấp cho cơ thể có thể lấy từ động vật hoặc thực vật. Ví dụ: Vitamin A có nhiều trong gan các loại động vật, lòng đỏ trứng, củ cà rốt; Vitamin C có rất nhiều trong chanh, cam, quýt, bưởi, bòng; Vitamin B1 có nhiều trong cám, men bia, đậu tương…

Một điều đáng lưu ý là các vitamin rất dễ bị phân hủy, nên việc nấu nướng đúng cách cũng là cách để giữ lại các vitamin cung cấp đầy đủ cho cơ thể. Nói chung, một chế độ ăn hài hòa và giàu chất dinh dưỡng đủ để cung cấp vitamin cho cơ thể mà không cần bất cứ một sự bổ sung nào khác, ngoại trừ các trường hợp bệnh lý cần có sự chỉ định của các bác sĩ.

        Một số hệ lụy do Vitamin gây ra: Tuy vitamin cần thiết cho cơ thể và sự sống đến như vậy, nhưng nếu “ép” cơ thể tiếp nhận một lượng vượt quá nhu cầu thì dẫn đến những hệ lụy khó lường, tiền mất tật mang. Sau đây là những hậu quả do thừa vitamin gây ra:

+ Vitamin A: Dự trữ trong gan theo nguyên tắc “cung cấp bao nhiêu, dự trữ bấy nhiêu”. Do vậy, việc cung cấp thừa sẽ tích lũy lại trong cơ thể gây ra ngộ độc. Các triệu chứng thường diễn ra từ từ cùng với lượng thừa tích lũy trong cơ thể: cảm giác khó chịu, ngứa ngáy, rụng lông, tóc, khô da, niêm mạc, bong vảy, đau khớp… có thể gây sảy thai và quái thai nên việc dùng Vitamin A là chống chỉ định tuyệt đối ở phụ nữ đang mang thai.

Nếu cung cấp một liều lớn trong một lần sẽ gây ra ngộ độc cấp với các biểu hiện nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn và nôn, thóp phồng ở trẻ nhỏ, sau đó là bong da và niêm mạc.

+ Vitamin E: Mặc dù giống các Vitamin B và C là có thể dùng liều cao và kéo dài mà không độc. Tuy vậy, việc lạm dụng Vitamin E sẽ làm tăng tác dụng ngăn ngưng kết tiểu cầu của Aspirin, gây rối loạn quá trình đông máu qua việc làm giảm sự kết dính của tiểu cầu trong máu. Để an toàn, người dùng Vitamin E liều cao, kéo dài nếu có phối hợp với các thuốc trên thì nên ngừng dùng thuốc vài tuần trước khi tiếp nhận một cuộc mổ theo chương trình.

+ Vitamin D: Thường được sử dụng để phòng và chữa bệnh còi xương, nhưng nếu dùng liều cao kéo dài nhiều tuần ở trẻ em sẽ gây ngộ độc với các biểu hiện: Chán ăn, mệt mỏi, nôn, tiêu chảy hoặc táo bón, nhức đầu, yếu cơ, đau nhức các xương khớp… Nếu xét nghiệm sẽ thấy Canxi máu tăng và lượng Canxi trong máu và nước tiểu tăng. Ngoài ra, Vitamin D còn chống chỉ định sử dụng trong các trường hợp đang có bệnh ở ruột và dạ dày, bệnh cấp hoặc mạn tính ở gan và thận, lao phổi đang tiến triển, suy tim mất bù, tăng can xi máu.

Ngoài những tác dụng ngoại ý trên, một số vitamin dạng tiêm như Vitamin B1, Vitamin C… gây ra các phản ứng phản vệ của cơ thể, riêng Vitamin B1 có thể gây sốc dẫn đến tử vong.

suckhoe.org.vn